Hoa râm bụt (Hibiscus rosa-sinensis L.) thuộc họ bông (Malvaceae), là một cây cảnh và cây hàng rào phổ biến ở nước ta và nhiều nước nhiệt đới khác.
Có nhiều loài: Râm bụt thường có dáng hoa cong, cánh hoa có răng cưa; râm bụt kép với hoa thẳng, nhiều cánh hoa; râm bụt xẻ hoa buông thõng, cánh hoa xẻ thùy và răng không đều; râm bụt hoa nhỏ, hoa mọc rủ, cánh hoa nguyên không bao giờ nở xòe. Trong đó, chỉ có râm bụt thường được dùng phổ biến làm thuốc với tên khác là bông bụt, hồng bụt (miền Trung), bụp (miền Nam), co ngần (Thái), bióc ngần (Tày), phẩy quấy phiằng (Dao), phù tang, xuyên cân bì. Trong y học cổ truyền, hoa râm bụt có tên thuốc là mộc cận, vị ngọt, trơn nhầy, tính bình, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, làm săn, lợi tiểu, tiêu sưng, giải độc. Nhiều bộ phận của cây được dùng trong những trường hợp sau: Hoa: Thu hái khi mới nở, dùng tươi hay phơi khô. Hoa phơi khô, thái nhỏ, hãm uống thay trà chữa khó ngủ, hồi hộp, đi tiểu vàng. Hoa râm bụt 30g phối hợp với gỗ vang 30g, gừng 3 lát, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày chữa nhức đầu, chóng mặt ở phụ nữ mới đẻ; nếu phối hợp với hạt mã đề lượng bằng nhau sắc uống lúc đói lại chữa tả lỵ ở trẻ nhỏ. Để chữa mộng tinh, đái buốt, lấy hoa râm bụt, lá bạch đồng nữ, thài lài tía, mỗi thứ 30g, giã nhỏ, thêm nước đun sôi để nguội, gạn uống ngày hai lần; hoặc hoa râm bụt 30g, gương sen 3 cái, cắt nhỏ, sắc uống. Dùng ngoài, hoa râm bụt với lá trầu không, lá thồm lồm, mỗi thứ 50g, để tươi, giã nát đắp chữa mụn nhọt, nhất là nhọt đang nung mủ, đau nhức. Lá: Chữa quai bị: Lá râm bụt 50g, hành củ 50g, giã nhỏ, thêm nước, gạn uống và bã đắp. Chữa chân đau nhức, đôi khi co cứng không đi lại được: Lá râm bụt, lá si, lá đào, lá mận, lá thài lài tía, mỗi thứ 30g, thái nhỏ, phơi khô, sao qua, ngâm với ít rượu, dùng xoa bóp hàng ngày. Chữa tràng nhạc:
Lá râm bụt 10g, lá hoặc quả cây ngoi 10g, vỏ rễ cây gạo 20g; tất cả dùng tươi, giã nhỏ với ít muối, đổ ngập sâm sấp nước vo gạo đặc, đun sôi nhỏ lửa cho đến khi sền sệt. Để nguội, đắp và băng. Ngày làm 1 lần. Rễ: Tách lấy vỏ rễ, phơi khô, lấy 30g thái nhỏ, sắc uống chữa kinh nguyệt không đều. Có thể phối hợp với lá huyết dụ với liều lượng bằng nhau trong trường hợp kinh ra nhiều, rong huyết. Vỏ thân: Cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, lấy 50g, thái nhỏ, sắc uống chữa khí hư. Dùng 5 ngày. Vỏ thân râm bụt 50g, phối hợp với bồ kết 10 quả, bỏ hạt, gừng tươi 20g, thái nhỏ, sắc rồi cô đặc sền sệt. Để nguội. Bôi ngày 2 lần để chữa chàm mặt. Để chữa kiết lỵ, lấy vỏ thân râm bụt 40g, búp hoặc lá táo 40g, gừng tươi 5 lát, thái nhỏ, sao vàng (trừ gừng), hạ thổ, rồi sắc uống trong ngày. Hồng Hạnh (Theo DS. Đức Huy – SK&ĐS)